Ảnh hưởng của nhà trường tới sự bất cân xứng giữa nhu cầu tuyển dụng và khả năng đáp ứng của sinh viên ở ngân hàng
Sự bất cân xứng giữa khả năng đáp ứng của sinh viên khi ra trường với yêu cầu về chuyên môn của các nhà tuyển dụng trong ngành tài chính ngân hàng có thể xuất phát từ bản thân sinh viên và cách tiếp cận nguồn lực của Ngân hàng. Tuy nhiên một nguyên nhân cũng rất quan trọng nữa là tác nhân để khả năng của sinh viên và nhu cầu của Ngân hàng có thể gặp nhau đó là đào tạo trong trường Đại học. Có một thực tế là nhiều ngân hàng vẫn buộc phải tiếp nhận những nhân viên “dưới chuẩn” vì nếu không tiếp nhận thì ngân hàng sẽ phải đối mặt với nguy cơ thiếu nhân lực. Mặc dù trường Đại học được coi là nơi đào tạo và trang bị cho sinh viên những kiến thức cần thiết cho ngành học, nhưng lại không tạo ra những con người “có nghề”. Bởi vậy mà hiện nay hầu hết các ngân hàng đều xây dựng Trung tâm đào tạo của riêng mình và việc đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp vụ cho nhân viên mới được coi là việc tất yếu đối với các ngân hàng. Vậy thì có những nguyên nhân trực tiếp nào dẫn đến “sản phẩm đầu ra” của các trường Đại học lại không đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng của các ngân hàng?
1. Về phương thức đào tạo
1.1 Các phương pháp giảng dạy kém hiệu quả
Hiện nay, việc giảng dạy vẫn phổ biến dưới hình thức bài thuyết trình, bài giảng của các thầy cô mà thiếu đi sự đóng góp của chính sinh viên trong bài học hay chính là thiếu sự tương tác giữa sinh viên và giảng viên trong quá trình học. Các thầy cô ít sử dụng những kỹ năng học tích cực như giao bài tập, giao những bài nghiên cứu nhỏ có gắn với thực tế, hoặc tăng những giờ thảo luận trong lớp học. Những kỹ năng học như thế sẽ giúp cho sinh viên tránh ghi nhớ kiến thức theo kiểu thuộc lòng mà là thực sự nắm được vấn đề và có khả năng áp dụng vào thực tế.
1.2 Sinh viên học tập và tiếp cận kiến thức một cách thụ động
Tuy việc truyền đạt kiến thức của các thầy cô đã được xác định “lấy sinh viên làm trung tâm, thầy cô chỉ là người hướng dẫn”, nhưng có thể do cách tổ chức bài giảng của thầy cô hoặc có thể do sự thiếu linh hoạt trong việc học tập của sinh viên mà điều này ít nhiều bị xao nhãng. Sinh viên vẫn có thói quen học kiểu ghi chép, và chỉ dừng lại ở những kiến thức đơn thuần được đưa ra trong bài giảng và sách giáo trình. Đối với sinh viên khối ngành kinh tế nói chung và sinh viên chuyên ngành TC – NH nói riêng, những kiến thức cập nhật về tình hình kinh tế thế giới hoặc những thay đổi trong những nghiệp vụ mình đang học là hết sức cần thiết. Đó là chưa kể đến việc sinh viên cần phải tham khảo them những tài liệu, giáo trình nước ngoài để một phần nào đó có thể bắt nhịp cùng chương trình đào tạo quốc tế vì giáo trình tại Việt Nam chưa thực sự cập nhật và thống nhất.
1.3 Thiếu nhận thức về sự khác biệt giữa giáo dục và đào tạo
Các trường cần tự xác định giáo dục và đào tạo là hai phạm trù khác nhau trong cùng một mục đích là có được đầu ra là nguồn nhân lực. Giáo dục là sự chuẩn bị chung cho việc học cá nhân và nghề nghiệp lâu dài, còn đào tạo là sự chuẩn bị cụ thể để có khả năng thực hiện hoàn tất công việc. Dường như ở Việt Nam, hầu hết nguồn nhân lực mới chỉ được giáo dục chứ chưa được đào tạo. Cụ thể là nguồn nhân lực trong ngành TC – NH mới chỉ được dạy các kiến thức chuyên ngành chứ chưa được trang bị những kỹ năng cần thiết khi giải quyết một công việc cụ thể.
1.4 Mất cân đối giữa các giờ học lý thuyết và giờ học thực hành/ áp dụng vào tình huống thực tế
Việc truyền đạt kiến thức ở Việt Nam vẫn tập trung quá lớn vào cung cấp lý thuyết và kiên thức dữ kiện mà thiếu hẳn các bài học tình huống.
Kiến thức cơ sở là phần sinh viên bắt buộc phải nắm được, từ đó mới có thể áp dụng vào các bài học tình huống, ngược lại, từ việc học các bài tập tình huống như vậy, sinh viên có thể nắm rõ hơn và thậm chí là bổ sung, phát triển những kiến thức nền đã được học. Hơn nữa, chính việc soạn ra một khối lượng kiến thức khá nặng phải hoàn thành cùng một thời lượng như đối với các môn đại cương đã khiến cho việc tiếp thu vội vàng và không có thời gian cho áp dụng. Trong khi một môn học đại cương có thể chiếm tới 8 trình tương đương 120 tiết thì một môn học chuyên ngành lại chỉ có vỏn vẹn 60 tiết. Đã có thầy cô giáo thừa nhận, với một thời lượng như vậy cho một khối lượng kiến thức chuyên ngành lớn và phức tạp thì khó có thể hoàn thành một cách chi tiết, chưa nói đến việc có thể thực hành.
2. Về chương trình đào tạo và các môn học
2.1 Mất nhiều thời gian đào tạo nhóm bộ môn chính trị và môn Giáo dục quốc phòng
Chương trình đào tạo Đại học (ĐH) phổ biến trên thế giới đã được công nhận có nhiều điểm khác biệt đối với chương trình đào tạo ĐH ở Việt Nam. Khác biệt là điều tất yếu vì mỗi quốc gia đều có sự lựa chọn riêng, và có nhiều yếu tố tác động đến lựa chọn đó, nhưng khác biệt về thời lượng dành cho các môn chính trị và giáo dục quốc phòng có thể đưa đến những ảnh hưởng không được tích cực đến thời gian cung cấp cho sinh viên (SV) những kiến thức chuyên ngành cần thiết. Trong tất cả các chương trình đào tạo của Việt Nam đều có nhóm các môn chính trị và giao dục quốc phòng trong khi các trường nước ngoài không hề có hoặc không bắt buộc. Các môn này thường chiến từ 20 đến 24 đơn vị học trình (khoảng 300 – 360 tiết học), điều này dẫn đến việc bất bình đẳng trong việc học và công nhận trình độ đối với người tốt nghiệp Đại học. Một trường ĐH hoặc một doanh nghiệp nước ngoài có thể không công nhận bằng cử nhân tại một trường ĐH Việt Nam do sinh viên không được học đủ số giờ cần thiết cho một môn chuyên ngành, nhưng, một trường ĐH hoặc một doanh nghiệp ở Việt Nam không thể từ chối bằng cử nhân của một sinh viên nước ngoài vì họ thiếu giờ học cho các môn chính trị và giáo dục quốc phòng. Trong sự hội nhập mạnh mẽ và xu thế phát triển nhanh chóng của tri thức như hiện nay, liệu một cử nhân tốt nghiệp Việt Nam có thể đáp ứng được nhu cầu cho công việc tại các doanh nghiệp, ngân hàng, tổ chức… đòi hỏi kiến thức chuyên ngành cao, am hiểu công việc sâu sắc hay không? Đã từng có nhiều ý kiến đề đạt trong các hội nghị về cải cách giáo dục ĐH về việc giảm bớt thời lượng học cho các môn khoa học xã hội, để giành thời gian tập trung cho các môn chuyên ngành và các kỹ năng thực tế; nhưng kết quả hầu như không thay đổi.
2.2 Các trường ĐH chưa được tự chủ chương trình đào tạo
Hiện nay, chương trình giáo dục ĐH của ta vẫn còn kém hiệu quả và một nguyên nhân rõ rệt là Bộ Giáo dục và Đào tạo khống chế quá chặt về chương trình khung, yêu cầu các trường phải tuân thủ một cách cứng nhắc. Cũng với một ví dụ tương tự như trên, chương trình khung của quy định phải có môn học giáo dục thể chất, trong khi với ĐH nước ngoài đây là môn học tự chọn. Việc sắp xếp và bố trí thời gian cho môn giáo dục quốc phòng cũng không hợp lý. Thông thường, hiện nay sinh viên phải mất một tháng vừa học lý thuyết vừa thực hành. Khoảng thời gian này có thể được dành ra cho việc học ngoại khóa hay cho sinh viên thực hành những nghiệp vụ đã được học, như vậy, có lẽ chất lượng đào tạo sẽ cao hơn. Nếu như các trường được chủ động trong biên soạn chương trình, trong cùng một ngành, mỗi trường sẽ có chương trình đặc thù mang thế mạnh riêng của trường mình. Đây cũng là một cách cạnh tranh lành mạnh giữa các trường từ đó tạo động lực nâng cao chất lượng đào tạo.
2.3 Đào tạo dàn trải không chuyên sâu, dẫn đến việc sinh viên chuyên ngành Tài chính ngân hàng (TCNH) ra trường với số lượng lớn nhanh chất lượng không cao.
Theo những nghiên cứu gần đây, khối lượng sinh viên ra trường thuộc chuyên ngành TC – NH thậm chí vượt quá nhu cầu tuyển dụng của các NH, công ty tài chính và các tổ chức tín dụng, nhưng nguồn nhân lực có chất lượng và đạt được yêu cầu tuyển dụng lại dừng lại ở con số quá thấp. Đại diện NH Xuất nhập khẩu Việt nam Eximbank cho biết, hiện nay hầu hết các sinh viên ra trường chưa thể đáp ứng được ngay nhu cầu công việc, gần như 100% các nhân viên đều phải qua một lớp đào tạo ngắn hạn ít nhất là 3 tháng do NH tổ chức rồi sau đó được hướng dẫn thực tế mới làm được việc. Cũng theo kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu, các nhân viên hiện tại đang làm việc tại các NH hầu hết cho rằng sinh viên sau khi vào làm từ 3 đến 6 tháng mới đáp ứng được yêu cầu công việc. Tài chính Ngân hàng là một lĩnh vực khá rộng, bao gồm nhiều phân ngành nhỏ và mỗi một phân ngành như vậy lại yêu cầu những kỹ năng và nghiệp vụ khác nhau. Tuy nhiên, việc đào tạo trong trường ĐH lại không được tách bạch ra như vậy: sinh viên ngành Tài chính, sinh viên ngành Ngân hàng, sinh viên Kinh tế có khi cùng được dạy một môn nhưng nội dung lại không tương đồng, hoặc có khi được học các môn có tên gọi khác nhau nhưng lại có nội dung tương tự. Ở một khía cạnh khác, sinh viên được trang bị những kiến thức đa dạng thuộc nhiều môn học nhưng dàn trải ở quá nhiều môn, không tập trung, không chuyên sâu, dẫn đến tình trạng sinh viên có kiến thức về một mảng nào đó nhưng chỉ là những kiến thức sơ qua và chưa thể đủ để đáp ứng yêu cầu công việc cho mảng đó. Theo con số thống kê không chính thức thì có khoảng 70% sinh viên khi ra trường không làm theo đúng chuyên ngành mà mình đã học, thậm chí rất nhiều trong số họ phải chấp nhận công việc chỉ đòi hỏi trình độ trung cấp, trong khí đó, các doanh nghiệp và ngân hàng vẫn tiếp tục đau đầu vì bài toán đào tạo nhân lực.
Thêm vào đó là việc phân ngành và cấu trúc môn học không rõ ràng, thậm chí còn chồng chéo vì lý do kích thích theo chỉ tiêu số lượng. Mỗi khoa có xu hướng quản lý nhiều môn học hơn, thời lượng tiết giảng lớn hơn, và như vậy thì thu nhập đổ về cho giảng viên trong khoa nhiều hơn. Từ đó xuất hiện xu hướng phân nhỏ một chuyên ngành hẹp ra thành những chuyên ngành quá hẹp và đưa chúng về thành các khoa riêng biệt. Việc phân nhỏ hay dạy trùng lặp làm tăng số lượng môn học bắt buộc trong từng chuyên ngành tăng lên đáng kể. Và như vậy khó có thể đưa thêm vào chương trình những môn học hiện đại mà thị trường đang có nhu cầu.
2.4 Chương trình đào tạo đại học yêu cầu quá nhiều môn học:
Thông thường, trong một học kỳ, sinh viên phải học từ 6 đến 8 môn, mỗi môn khoảng 4 đơn vị học trình, và như vậy sinh viên không thể có kiến thức sâu. Đây cũng là một khối lượng công việc khá lớn cho cả giảng viên và sinh viên. Giảng viên sẽ không có nhiều thời gian để nghiên cứu và chuẩn bị bài giảng một cách phong phú, còn sinh viên thì không có thời gian tự học, tự tìm hiểu thêm và làm những bài tập hoặc đọc những thông tin bổ trợ. Hơn nữa, tất cả các môn học đều là các môn bắt buộc, không có khoảng trống dành cho môn học tự chọn. Về nguyên tắc, một sinh viên thuộc ngành này có thể theo học một số môn bổ trợ thuộc ngành khác để tăng khả năng tìm việc làm chẳng hạn, nhưng số môn bắt buộc trong nội bộ ngành thường đã quá cao, sinh viên lại phải đạt điểm giỏi các môn này như là một điều kiện tiên quyết. Thậm chí có trường còn không cho phép sinh viên học hai chuyên ngành cùng một lúc mặc dù đã đáp ứng đủ điều kiện vì không có tiền lệ. Điều này ngăn cản rất nhiều việc học tập, cầu thị và tự bổ trợ kiến thức của sinh viên.
2.5 Nội dung của mỗi môn học và chương trình đào tạo có phần lỗi thời, không ngang bằng với trình độ phát triển của thế giới.
Khung chương trình đào tạo vẫn đi theo một lối mòn cũ. Một khung chương trình đào tạo tiêu biểu của một trường kinh tế là hai năm đầu học các môn đại cương, và hai năm tiếp theo học các môn chuyên ngành. Đối với một số trường thời gian đào tạo là 4 năm thì khoảng thời gian cho các môn chuyên ngành thực chất chỉ là 3 năm rưỡi, như vậy là thời lượng còn ít hơn so với học các môn đại cương. Hầu hết các trường ĐH trên thế giới đều đào tạo theo hình thức tín chỉ, sinh viên ngoài những môn học bắt buộc có thể học thêm những môn bổ trợ mà anh ta thấy cần thiết cho công việc sau này, và có thể tự chủ về thời gian hoàn thành chương trình. Chương trình đào tạo như vậy sẽ khiến cho sinh viên học tập tự chủ hơn và độc lập hơn trong việc thu nạp kiến thức cho mình. Nội dung của từng môn học và chương trình đào tạo có phần lạc hậu, ít tạo điều kiện cho sinh viên tư duy, đặt ra vấn đề và giải quyết vấn đề.
2.6 Thiếu các kỹ năng nghề nghiệp thông thường
Các trường ĐH hiện nay hầu hết mới chỉ tập trung vào giảng dạy kiến thức mà chưa dành mối quan tâm thực sự đến một phần khuyết lớn trong kỹ năng nghề nghiệp thông thường của sinh viên như làm việc nhóm, giao tiếp, viết văn bản bằng tiếng Anh, phương pháp giải quyết vấn đề, sáng kiến tích cực, học tập suốt đời… Có thể lấy một ví dụ khá điển hình ở trường ĐH Ngoại thương Hà Nội sau khi tiến hành điều tra về chất lượng đào tạo của trường, trong phần kết quả về những phẩm chất còn thiếu của sinh viên Ngoại thương, các kỹ năng nghề nghiệp thông thường lại chiếm tỷ lệ khá cao so với chuyên môn nghiệp vụ.
Các kỹ năng này hầu như sinh viên không được đào tạo trong trường và cũng không có nhiều thông tin để tìm hiểu. Các bạn chịu quan sát và để ý có thể tự trang bị bằng cách đọc sách hoặc tham gia các khóa học ngắn hạn về các kỹ năng nghề nghiệp thông thường này. Hạn chế này dẫn đến khả năng hòa nhập với công việc có thể gặp khó khăn, hoặc lúng túng khi phải giải quyết vấn đề nảy sinh trong khi làm việc.
2.7 Thiếu thông tin về nhu cầu nghề nghiệp của các nhà tuyển dụng nên không có chương trình đào tạo phù hợp.
Một thực tế ở Việt Nam hiện nay là chưa có cơ quan nào đóng vai trò ban điều hành về nhu cầu đào tạo, hay nói cách khác, nhà tuyển dụng trong ngành TC – NH và các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cho ngành này chưa có mối liên hệ cần thiết và Bộ Giáo dục đào tạo cũng chưa làm hết chức năng và nhiệm vụ của mình. Các trường ĐH hoàn toàn có thể điều chỉnh số chỉ tiêu cho mỗi ngành học để đáp ứng vừa đủ nhu cầu của các nhà tuyển dụng nếu có một dự báo về lượng cầu nhân lực cho từng tiểu ngành, từng chuyên môn nghiệp vụ cụ thể của các tổ chức TC – NH. Trong một vài năm vừa qua, các ngành ngoại thương, tài chính, ngân hàng thu hút một lượng lớn sinh viên đổ dồn vào học những ngành có tiềm năng lớn trên thị trường việc làm, tuy nhiên, luồng sinh viên này lại ít thay đổi theo những biến động của thị trường và các trường ĐH cũng không thường xuyên có sự điều chỉnh về chỉ tiêu tuyển sinh. Ví dụ cụ thể như, từ cuối năm 2007 đến thời điểm hiện tại, các NH Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn trong diễn biến kinh tế khá bất lợi, nhiều NH phải đối mặt với việc mất khả năng thanh toán, tuy nhiên, theo thống kê không chính thức thì số hồ sơ đăng ký thi vào Học viện Ngân hàng năm 2008 tăng gần như gấp đôi, từ 13.000 lên 25.000 so với năm 2007. Và cũng do không có thông tin về nhu cầu tuyển dụng cụ thể theo từng bộ phận chuyên môn nghiệp vụ của Ngân hàng nên các trường ĐH không thể điều chỉnh chương trình và quy mô đào tạo phù hợp.
3. Về tài liệu giảng dạy
3.1 Tài liệu giảng dạy không đồng bộ giữa các trường
Hiện tại, do chương trình đào tạo và thậm chí tên gọi cũng như nội dung các môn học chưa được thống nhất trong hệ thống các trường ĐH có các trường sử dụng không đồng bộ. Điều này dẫn đến việc chênh lệch kiến thức giữa các sinh viên mới ra trường của các trường ĐH. Ví dụ như trường Ngoại thương có giáo trình Thanh toán quốc tế; Học viện Ngân hàng có giáo trình Thanh toán quốc tế bằng L/C là một phần quan trọng trong Thanh toán quốc tế… và hầu hết các giáo trình Kinh tế Vi mô, Kinh tế Vĩ mô trường Ngoại thương hầu hết dùng sách của trường Kinh tế quốc dân, Bộ môn Marketing thì trường Ngoại thương dùng kết hợp giáo trình Marketing lý thuyết của trường và giáo trình Marketing quốc tế của trường Kinh tế quốc dân… Việc sử dụng tài liệu không đồng bộ như vậy thứ nhất, khó có tiêu chí cụ thể để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực đầu ra nếu chỉ dựa trên kết quả đào tạo ở trường; thứ hai, khó cho Bộ Giáo dục và đào tạo trong việc theo dõi chương trình đào tạo của các trường cũng như Bộ sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh hoặc thực hiện các chính sách của mình; thứ ba, nếu việc sử dụng tài liệu thống nhất và tài liệu thực sự có chất lượng thì việc hình thành ngân hàng câu hỏi, ngân hàng đề thi, ngân hàng bài giảng sẽ thuận lợi hơn rất nhiều; đồng thời cũng tạo điều kiện để các trường có thể trao đổi kinh nghiệm giảng dạy và luân chuyển giảng viên giỏi.
3.2 Thiếu update, không phù hợp với chương trình đào tạo quốc tế vì vậy khó khăn cho sinh viên trong việc đáp ứng những đòi hỏi công việc phức tạp.
Một trong những hạn chế lớn nhất của tài liệu giảng dạy ĐH ở Việt Nam là kém update và không theo sát những tài liệu chuẩn quốc tế và những tài liệu có chất lượng đã được công nhận. TC – NH là một trong những ngành sôi động nhất trên thế giới, bởi vậy tài liệu giảng dạy các môn học về TC – NH cũng như tài liệu tham khảo rất phong phú và thường xuyên được cập nhật. Tài liệu giảng dạy ở Việt Nam, nhất là các môn đại cương hoặc các môn kinh tế cơ bản đều được các thầy cô viết từ rất lâu và không được sửa chữa kịp thời số liệu, quan điểm, tìm tòi mới… Có những tài liệu tuy được dịch từ sách gốc nhưng mặc dù sách đã được xuất bản và chỉnh sửa thêm nhiều phiên bản nhưng giáo trình ở Việt Nam vẫn không có gì thay đổi. Ngoài ra, các trường ĐH ở Việt Nam rất ít tận dụng nguồn học liệu mở trên Internet với những bài giảng và chỉ dẫn sách tham khảo rất bổ ích.
4 Về giảng viên
Một trong những nhân tố không thể thiếu trong công tác đào tạo sinh viên nhằm đáp ứng được các yêu cầu công việc sau này là đội ngũ giảng viên. Tuy nhiên có rất nhiều ý kiến được đưa ra về việc số lượng giảng viên ngày càng tăng nhưng chất lượng ngày càng giảm hoặc không tăng. Vậy những yếu tố nào từ vấn đề giảng viên có thể tác động tiêu cực đến chất lượng đào tạo sinh viên ngành TC-NH
4.1 Đội ngũ giảng viên được trang bị ít ỏi về mặt học thuật
Giảng viên có những hạn chế về đào tạo sau đại học như chỉ hoàn thành chương trình thạc sĩ, bài giảng của họ chỉ dừng lại ở những lý thuyết thông thường và được truyền đạt lại cho sinh viên theo cách riêng của từng người. Giảng viên thiếu những kiến thức cập nhật trong chuyên ngành liên quan đến chương trình đào tạo, nội dung môn học và những hiểu biết thực tế về những nghiệp vụ họ giảng dạy được áp dụng cụ thể như thế nào, cần lưu ý thêm những gì và cần phải bổ sung những kiến thức gì để có thể thực hành được những nghiệp vụ đó. Các tổ chức tài chính và các ngân hàng đồng thời cũng chưa có những chương trình hợp tác với trường ĐH để tạo điều kiện cho giảng viên được tiếp xúc với các công việc xử lý nghiệp vụ thực tế.
4.2 Thu nhập của giảng viên và chế độ khen thưởng không thỏa đáng.
Có một thực tế là lương và thu nhập của giảng viên được xác định theo vị trí quản lý, thâm niên công tác, và số lượng giờ tăng. Nhưng cách xác định như vậy không thu hút được các tiến sĩ, thạc sĩ mới tốt nghiệp từ các trường ĐH danh tiếng trên thế giới về giảng dạy mà thậm chí còn có tác dụng ngược lại. Đó là khiến các giảng viên hiện thời phải tăng giờ dạy, hoặc vừa giảng dạy vừa nắm một chức vụ quản lý để có một thu nhập cao hơn. Như vậy giảng viên không có đủ thời gian để vừa nghiên cứu vừa cập nhật thông tin và tình hình thực tế, đồng thời đảm bảo được việc dạy và hoành thành chương trình trên lớp mà vẫn phải lo đến thu nhập của mình.
Giảng viên được nhận tiền thưởng dựa trên thời lượng giảng dạy chứ không phải việc thực hiện nghiên cứu. Do đó không có động lực thúc đẩy giảng viên đầu tư thời gian, công sức và thậm chí tiền của để nghiên cứu nhằm cung cấp cho sinh viên những mảng kiến thức sâu sắc và có thực tế.
Giảng viên không nhận thức được hết các thủ tục và các bước của hệ thống khen thưởng (như thăng tiến, khen nhượng, bổ nhiệm) hoặc trách nhiệm đối với công tác giảng dạy của họ.
4.3 Với quy mô các trường ĐH ngày càng được mở rộng như hiện nay, nhu cầu đối với đội ngũ giảng viên là khá lớn, nhưng do yêu cầu những kiến thức chuyên ngành nên hầu như giảng viên được tuyển từ chính những sinh viên tốt nghiệp ra trường ở trường ĐH đó.
Điều này có những tác động khá tiêu cực, thứ nhất những sinh viện được tuyển để trở thành giảng viên có thể giỏi về nghiệp vụ nhưng lại không có kiến thức và kỹ năng sư phạm nên không thể truyền đạt cho sinh viên; thứ hai là những giảng viên trẻ này hầu hết chưa có kinh nghiệm đứng lớp, và thậm chí có những trường quá thiếu giảng viên nên bỏ luôn giai đoạn kiến giảng.
4.4 Giảng viên đôi khi thụ động và không muốn thay đổi hoặc cải tiến phương thức cũng như chương trình đào tạo.
Dường như giảng viên chưa bị ràng buộc bởi chế tài nào cho trách nhiệm đối với chất lượng sinh viên mình giảng dạy nên không có động lực để cải tiến chương trình.
4.5 Giảng viên thiếu sự hỗ trợ trong một số lĩnh vực.
Giảng viên có ít hoặc không có sự hỗ trợ phát triển về mặt chuyên môn nghiệp vụ như việc được tạo điều kiện cho đi học hoặc làm nghiên cứu sinh. Ngoài ra ở Việt Nam còn rất hạn chế trong việc giảng viên có trợ giảng, hoặc chuyên gia về tài chính ngân hàng tư vấn về nội dung chương trình, tài liệu tham khảo và cách thức giảng dạy. Trợ giảng có thể giúp giảng viên tìm hiểu các nghiệp vụ thực tế, thu thập những tài liệu thực tế nhằm hỗ trợ giảng viên trong giảng dạy kiến thức chuyên ngành.
4.6 Nguồn tài liệu tham khảo có sẵn của trường cho giảng viên còn rất hạn chế.
Giảng viên không được hỗ trợ để có điều kiện tiếp xúc với những tài liệu chuyên khảo đầu ngành của các chuyên gia trong và ngoài nước; ngoài ra giảng viên cũng chưa được tiếp cận nhiều với nguồn thông tin, dữ liệu và các chứng từ, tài liệu thực tế của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy.
4.7 Chưa có chương trình đáng giá chất lượng giảng viên.
Gần đây, ở một số trường bắt đầu có những chương trình thăm dò ý kiến của sinh viên về phương pháp, nội dung giảng dạy và kiến thức thực tế ngành TC – NH mà các giảng viên truyền đạt được. Tuy nhiên, vẫn chưa có một cơ chế cố định cho việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giảng viên: có thể là tự đánh giá, đánh giá của sinh viên và đánh giá từ phía các đồng nghiệp giảng dạy cùng chuyên ngành.
4.8 Chưa có sự trao đổi kiến thức, kinh nghiệm giảng dạy giữa các giảng viên.
Như trong bất cứ một ngành nào khác, kinh nghiệm và tri thức là của riêng mỗi người, các giảng viên trong ngành TC – NH còn có quá ít các chương trình giao lưu, trao đổi quan điểm và thậm chí là trao đổi vị trí giảng dạy nhằm bổ sung và cập nhật kiến thức chuyên ngành và kiến thức thực tế. Đồng thời giúp đồng nghiệp phát hiện ra những yếu điểm để khắc phục trong việc giảng dạy cho sinh viên.
5. Về đánh giá kết quả học tập của sinh viên và hiệu quả của nhà trường
Một trong những nguyên nhân khiến cho các trường ĐH Việt Nam có chuyên ngành đào tạo là TC – NH chưa có thay đổi nhiều trong chương trình và phương thức giảng dạy là do chưa thực sự có tiêu chuẩn đánh giá kết quả học tập của sinh viên và tính hiệu quả trong việc giảng dạy và đào tạo của trường.
Hiện tại, kết quả học tập của sinh viên vẫn chủ yếu được tính dựa trên điểm thi cuối kỳ. Mặc dù đã có điểm thành phần là điểm thi giữa kỳ và điểm chuyên cần nhưng điểm cuối kỳ vẫn chiếm khoảng 60% - 70%, tỷ lệ này vẫn còn cao và có thể dẫn tới sự bất công bằng hoăc ảo tưởng về khả năng học tập của sinh viên
Giảng viên không chịu trách nhiệm về chất lượng giảng dạy và học tập cũng như cải tiến chất lượng giáo dục. Hầu như chưa có một cơ chế nào ảnh hưởng đến quyền lợi hoặc uy tín của giảng viên khi sinh viên ra trường không đáp ứng được yêu cầu công việc của các nhà tuyển dụng.
Các chương trình đánh giá chất lượng sinh viên hoặc những bài tập nghiên cứu, các bài kiểm tra ngắn chưa được áp dụng nhiều. Việc đánh giá khả năng tự tìm tòi, nghiên cứu của sinh viên cũng chưa được để ý tới
Chương trình đào tạo và môn học thường không được điều chỉnh hoặc cập nhật dựa trên các phản hồi về giảng dạy và học tập. Điều đó chứng tỏ chương trình đào tạo chưa thực gắn với chất lượng sinh viên,và bằng chứng trực tiếp về học tập của sinh viên rõ rang không được sử dụng trong việc đánh giá các môn học và chương trình đào tạo.
Thành công của sinh viên sau khi ra trường chưa được các trường ĐH thực sự quan tâm mặc dù đó mới chính là tiêu chí chính để đánh giá hiệu quả đào tạo của trường.
Việc làm dành cho sinh viên:
Việc làm thực tập sinh tuyển dụng mới nhất
Việc làm gia sư các môn cập nhật theo ngày mới nhất
Việc làm cộng tác viên ngân hàng
Việc làm thêm nhân viên phục vụ nhà hàng/ quán cafe dành cho sinh viên
Mức lương của thực tập sinh tuyển dụng là bao nhiêu?