TÓM TẮT LÝ THUYẾT: CƠ SỞ TÂM LÝ HỌC CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, THÁI ĐỘ, GIÁ TRỊ VÀ NHÂN CÁCH
1. Nhân cách và các thuộc tính của nhân cách
1.1. Khái niệm nhân cách
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những phẩm chất tâm lý của cá nhân, quy định giá trị xã hội và hành vi xã hội của họ (biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người).
1.2. Khái niệm nhân cách
- Tính ổn định của nhân cách
+ Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm lý tương đối ổn định, tiềm tàng trong mỗi cá nhân. Những đặc điểm tâm lý nói lên bộ mặt tâm lý - xã hội của cá nhân, quy định giá trị xã hội và cốt cách làm người của mỗi cá nhân. Vì thế, các đặc điểm nhân cách, các phẩm chất nhân cách tương đối khó hình thành và cũng khó mất đi. Trong thực tế, từng nét nhân cách (cá tính, phẩm chất) có thể bị thay đổi do cuộc sống, nhưng nhìn một cách tổng thể thì chúng vẫn tạo thành một cấu trúc trọn vẹn, tương đối ổn định.
+ Nhờ tính ổn định của nhân cách mà ta dự kiến trước được hành vi của một nhân cách nào đó, xác lập được nguyên nhân đích thực của những đặc điểm đó, cái gì có thể chờ đợi người đó trong tương lai, dự kiến được việc giáo dục, hình thành nhân cách theo hướng nào, những nét nhân cách nào cần củng cố, phát triển, thay đổi.
+ Nhân cách có tính ổn định nhưng không phải là bất biến, không thể thay đổi. Đây là cơ sở của quá trình giáo dục lại để điều chỉnh những nét nhân cách không phù hợp.
- Tính thống nhất của nhân cách
Nhân cách có tính thống nhất vì nhân cách bao gồm nhiều đặc điểm, nhiều phẩm chất (những đặc điểm, phẩm chất quy định con người như một thành viên xã hội, nói lên bộ mặt tâm lí xã hội, giá trị và cốt cách làm người), chúng có sự tương tác lẫn nhau làm thành một cấu trúc nhất định.
Tính thống nhất của nhân cách được thể hiện ở chỗ nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa đức và tài của con người. Trong nhân cách có sự thống nhất hài hòa giữa ba cấp độ: cá nhân, liên cá nhân và siêu cá nhân.
=> Vì vậy, chúng ta cần giáo dục con người một cách có hệ thống, liên tục, đồng bộ. Trong hoạt động giáo dục, khi thấy một học sinh có nét nhân cách nào tiêu cực thì cần phải tác động không chỉ trực tiếp vào nét nhân cách đó mà là vào toàn bộ nhân cách nói chung của con người ấy. Khi đánh giá một nét nhân cách nào đó ta cần phải xem xét nó trong sự kết hợp, trong mối liên hệ với những nét nhân cách khác của con người đó.
- Tính tích cực của nhân cách
Nhân cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp, là sản phẩm của xã hội vì thế nhân cách mang tính tích cực. Tính tích cực của nhân cách được biểu hiện trong quá trình thỏa mãn các nhu cầu của cá nhân hay nói cách khác một cá nhân được thừa nhận là một nhân cách khi nào anh ta tích cực hoạt động với những hình thức đa dạng của nó, nhờ vào việc nhận thức, cải tạo, sáng tạo ra thế giới và đồng thời cải tạo cả chính bản thân mình. Giá trị đích thực của nhân cách, chức năng xã hội và cốt cách làm người của cá nhân thể hiện rõ nét ở tính tích cực của nhân cách.
Nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là cần khơi dậy tính tích cực hoạt động của cá nhân trên cơ sở nắm bắt được nguồn gốc của tính tích cực là nhu cầu, từ đó cần giáo dục cá nhân có những nhu cầu cao cả và chính đáng.
- Tính giao lưu của nhân cách
Nhân cách chỉ có thể hình thành phát triển, tồn tại và thể hiện trong hoạt động và trong mối quan hệ giao tiếp với những nhân cách khác. Nhu cầu giao tiếp là một nhu cầu bẩm sinh của con người, con người sinh ra và lớn lên luôn có nhu cầu quan hệ và giao tiếp với người khác, với xã hội. Thông qua giao tiếp, con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị xã hội. Đồng thời cũng qua giao tiếp mà con người được đánh giá, được nhìn nhận theo quan hệ xã hội. Qua giao tiếp, con người đóng góp các giá trị phẩm chất nhân cách của mình cho người khác, cho xã hội.
Đặc điểm này là cơ sở của nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể. Trong hoạt động giáo dục cần tổ chức các loại hình hoạt động và giao lưu cho cá nhân tham gia, tạo điều kiện để có sự tác động qua lại trong mối quan hệ liên nhân cách của các em.
1.3. Năng lực nhân cách
a) Định nghĩa
- Năng lực là tổ hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả cao.
- Tâm lí học sư phạm xem năng lực là nhiệm vụ cơ bản của công tác giáo dục hình thành nhân cách cho học sinh
- Dù hiểu thế nào là năng lực thì các nhà tâm lý học đều thống nhất cho rằng:
+ Năng lực là cái do con người tự tạo, chủ yếu do con người học tập, rèn luyện mà có.
+ Năng lực được hình thành và phát triển trên cơ sở những tiền đề vật chất và những yêu cầu, đòi hỏi, nhu cầu của xã hội, của một hoạt động nào đó và những điều kiện thỏa mãn cho nhu cầu đó.
+ Năng lực về một hoạt động nào đó là khả năng trở thành hiện thực, bao giờ cũng thể hiện ở kết quả cao trong hoạt động
b) Các mức độ
Người ta thường chia năng lực thành 3 mức độ khác nhau:
- Năng lực: Là mức độ nhất định của khả năng con người, biểu thị khả năng hoàn thành có kết quả một hoạt động nào đó.
- Tài năng: Là mức độ năng lực cao hơn, biểu thị sự hoàn thành một cách sáng tạo một hoạt động nào đó.
- Thiên tài: Là mức độ cao nhất của năng lực, biểu thị ở mức kiệt xuất, hoàn chỉnh nhất của những vĩ nhân trong lịch sử nhân loại.
c) Mối quan hệ giữa năng lực với tư chất, thiên hướng, năng lực với tri thức kỹ năng, kỹ xảo
- Năng lực và tư chất:
+ Tư chất là những đặc điểm riêng của cá nhân về giải phẫu sinh lý bẩm sinh của bộ não, của hệ thần kinh, của cơ quan phân tích, tạo nên sự khác biệt giữa con người với nhau. Ngoài những yếu tố bẩm sinh di truyền, trong tư chất còn chứa đựng những yếu tố tự tạo trong cuộc sống cá thể.
+ Tư chất là một trong những điều kiện hình thành năng lực, nhưng tư chất không quy định trước sự phát triển của các năng lực. Trên cơ sở của tư chất có thể hình thành những năng lực rất khác nhau trong hoạt động những tiền đề bẩm sinh được phát triển nhanh chóng, những yếu tố chưa hoàn thiện sẽ tiếp tục hoàn thiện thêm và những cơ chế bù trừ được hình thành để bù đắp cho những khuyết nhược của cơ thể.
- Năng lực và thiên hướng
Thiên hướng là khuynh hướng của cá nhân đối với một loại hoạt động nào đó. Thiên hướng về một loại hoạt động nào đó và năng lực đối với hoạt động ấy thường ăn khớp với nhau và cùng phát triển với nhau. Thiên hướng mãnh liệt của con người đối với một loại hoạt động nào đó có thể coi là dấu hiệu của những năng lực đang hình thành.
- Năng lực và tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
+ Tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trong một lĩnh vực hoạt động nào đó là điều kiện cần thiết để có năng lực trong lĩnh vực ấy. Ngược lại, năng lực góp phần làm cho tiếp thu tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo nhanh chóng hơn, tốt hơn. Như vậy, giữa năng lực và kỹ năng, kỹ xảo có sự thống nhất, quan hệ mật thiết nhưng không đồng nhất. Một người có năng lực trong một lĩnh vực nào đó có nghĩa là đã có tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhất định ở lĩnh vực này nhưng khi đã có tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thuộc một lĩnh vực nào đó không hẳn sẽ có năng lực về lĩnh vực đó. Trong hoạt động giáo dục cần phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu cho học sinh để biến chúng thành năng lực.
+ Năng lực của mỗi người dựa trên cơ sở tư chất. Nhưng điều chủ yếu là năng lực hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động tích cực của con người dưới sự tác động của rèn luyện, dạy học và giáo dục. Việc hình thành và phát triển các phẩm chất nhân cách là phương tiện có hiệu quả nhất để phát triển năng lực.
1.4. Các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách
a) Yếu tố giáo dục và tự giáo dục
- Khái niệm: Giáo dục là một hiện tượng đặc trưng của xã hội, nhằm hình thành và phát triển nhân cách của con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Giáo dục trước hết là sự tác động của những nhân cách này đến những nhân cách khác, tác động của nhà giáo dục đến người được giáo dục cũng như tác động của những người được giáo dục với nhau.
- Vai trò:
+ Có quan niệm phủ nhận hoàn vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Ngược lại, có quan niệm tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục, coi giáo dục là vạn năng và đứa trẻ như tờ giấy trắng, sự hình thành và phát triển nhân cách của chúng hoàn toàn phụ thuộc vào sự giáo dục. Quan niệm của duy vật biện chứng khẳng định: Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.
+ Giáo dục không chỉ vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách mà còn tổ chức, dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh theo chiều hướng đó. Điều này được thể hiện thông qua mục tiêu đào tạo của nhà trường và các cơ quan giáo dục khác.
+ Giáo dục mang lại những sự tiến bộ cho cá nhân mà không một yếu tố nào có thể mang lại được.
+ Giáo dục có thể khắc phục những khiếm khuyết của bẩm sinh di truyền và góp phần cải tạo hoàn cảnh. Biểu hiện ở việc giáo dục có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của yếu tố thể chất (bẩm sinh di truyền), đồng thời bù đắp những thiếu hụt, hạn chế như người bị khuyết tật, bị bệnh hoặc có hoàn cảnh không thuận lợi).
+ Giáo dục không chỉ thích ứng mà còn đi trước và kéo theo sự phát triển. Thực tiễn đã chứng minh: Sự phát triển tâm lý trẻ chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những điều kiện của việc định hướng và giáo dục. Điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của giáo dục.
+ Tuy nhiên, giáo dục chỉ vạch ra đường hướng và thúc đẩy sự hình thành, phát triển nhân cách theo hướng đó. Do vậy, để giáo dục giữ vai trò chủ đạo cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục và tự giáo dục (là quá trình tự kiềm chế, biết hướng nhu cầu, hứng thú của mình cho phù hợp với những chuẩn mực đạo đức…). Giáo dục chỉ có thể đảm bảo cho sự phát triển nhân cách nếu có được chỗ dựa là các tư chất vốn có của con người và cũng không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục.
b) Hoạt động và giao tiếp
- Khái niệm: Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, mang tính cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định với những công cụ nhất định.
- Vai trò:
+ Hoạt động là nhân tố trực tiếp quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách thông qua hai quá trình đối tượng hóa và chủ thể hóa. Thông qua hoạt động, con người lĩnh hội được kinh nghiệm xã hội lịch sử để hình thành nhân cách. Mặt khác, cũng thông qua hoạt động con người xuất tâm “lực lượng bản chất” vào xã hội “tạo nên sự đại diện nhân cách của mình” ở người khác, trong xã hội.
+ Tuy nhiên, không phải bất cứ hoạt động nào cũng có vai trò tích cực trong việc hình thành nhân cách cho học sinh mà hoạt động phải được tổ chức khoa học, phải dựa trên những kinh nghiệm, những tiền đề nhất định và phải được thúc đẩy bởi những hoạt động cao đẹp. Trong công tác giáo dục cần chú ý thay đổi làm phong phú nội dung, hình thức, cách thức tổ chức hoạt động sao cho lôi cuốn thực sự cá nhân tham gia tích cực, tự giác vào hoạt động đó. Hoạt động của con người luôn mang tính xã hội, tính cộng đồng, nghĩa là hoạt động luôn đi với giao tiếp. Do đó, đương nhiên giao tiếp cũng là một nhân tố cơ bản trong sự hình thành và phát triển nhân cách.
=> Giao tiếp là điều kiện tồn tạo của cá nhân và xã hội loài người. Giao tiếp có một vai trò cơ bản trong việc hình thành và phát triển nhân cách, nhờ giao tiếp con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa, chuẩn mực xã hội. Trong giao tiếp con người không chỉ nhân thức được người khác, nhận thức được xã hội mà còn nhận thức được chính bản thân mình và hình thành năng lực tự ý thức.
3. Hành vi đạo đức
3.1. Định nghĩa hành vi đạo đức
Hành vi đạo đức là một hành động tự giác được thúc đẩy bởi một động cơ có ý nghĩa về mặt đạo đức.
3.2. Các tiêu chí xác định hành vi đạo đức
- Để nhận biết một hành vi đạo đức, có thể căn cứ vào các tiêu chuẩn sau:
+ Tính tự giác của hành vi: Một hành vi được xem là hành vi đạo đức khi hành vi đó được chủ thể hành động, ý thức đầy đủ về mục đích, ý nghĩa của hành vi. Hay nói cách khác là chủ thể hành vi phải có hiểu biết, có thái độ, có ý thức đạo đức. Chủ thể tự giác hành động dưới sự thúc đẩy của những động cơ của chính chủ thể mà không phải bị tác động mang tính bắt buộc từ người khác. Việc thực hiện một hành vi có nội dung đạo đức nhưng do sự bắt buộc từ người khác chưa thể coi là một hành vi đạo đức.
+ Tính có ích của hành vi: Đây là một đặc điểm nổi bật của hành vi đạo đức, nó phụ thuộc vào thế giới quan và nhân sinh quan của chủ thể hành vi. Hành vi vô bổ không đem lại lợi ích cho người khác hoặc cho xã hội thì không thể coi là hành vi đạo đức. Trong xã hội hiện đại, một hành vi được coi là có đạo đức hay không tuỳ thuộc ở chỗ nó có thúc đẩy cho xã hội đi lên theo hướng có lợi cho công việc đổi mới hay không.
+ Tính không vụ lợi của hành vi đạo đức: Hành vi đạo đức phải là hành vi có mục đích vì tập thể vì lợi ích chung, vì cộng đồng xã hội. Cá nhân thực hiện hành vi đạo đức không được lấy lợi ích của mình làm trung tâm hay thực hiện hành vi có bản chất là mong muốn lợi ích cho bản thân. Tục ngữ có câu: “Làm lành mong chúng biết danh, ấy là làm tiếng làm lành chi đâu”. Hành vi ấy có bản chất là vì cá nhân, vì bản thân do vậy nó không được coi là hành vi đạo đức.
4. Thái độ
4.1. Khái niệm
- Khái niệm thái độ được sử dụng rất thường xuyên trong cuộc sống đời thường và trong Tâm lý học. Tuy vậy, để hiểu một cách tường minh khái niệm này lại không dễ dàng. Hiểu theo nghĩa thông thường, “Thái độ là cách nhìn, cách hành động theo một hướng nào đó trước một vấn đề, một tình hình”.
- Trong Tâm lý học, có tác giả cho rằng: “Thái độ là trạng thái tinh thần của cá nhân đối với một giá trị” – Thomas.WI và F.Znaniecxki. Hay đầy đủ hơn: “ Thái độ là sự sẵn sàng về mặt tinh thần và thần kinh, được hình thành qua kinh nghiệm, có khả năng điều chỉnh hay ảnh hưởng năng động đến các phản ứng của cá nhân với tất cả khách thể và tình huống mà nó có mối liên quan” –Allport.
- Để nhận biết sâu hơn và rõ hơn về thái độ, có thể chỉ ra 5 đặc trưng:
+ Thái độ là trạng thái của tinh thần và hệ thần kinh của cá nhân.
+ Thái độ là sự sẵn sàng phản ứng.
+ Thái độ là trạng thái tâm lý có tổ chức.
+ Thái độ được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm quá khứ của cá nhân
+ Thái độ có khả năng ảnh hưởng và điều chỉnh hành vi.
=> Từ các cách hiểu trên có thể hiểu thái độ là sự thể hiện rung cảm, lựa chọn hay không lựa chọn, đề cao hay không đề cao của cá nhân trước một đối tượng hay sự vật hiện tượng, đóng vai trò định hướng và thúc đẩy các hành động của cá nhân.
Như vậy, mọi sự vật hiện tượng tồn tại trong thế giới xung quanh đều có thể là đối tượng của thái độ. Nói cách khác, con người có thể tỏ thái độ với mọi đối tượng và với chính bản thân. Thái độ có thể được bộc lộ rất đa dạng, từ lời nói đến hành vi, cử chỉ, bằng cả ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Nhận diện thái độ cần quan sát tinh tế ngôn ngữ, cử chỉ, lời nói của cá nhân. Nhiều khi thái độ thật bị che dấu bởi các dấu hiệu “mặt nạ”, do vậy, nhận biết thái độ của cá nhân không nên vội vã, quy chụp.
4.2. Đặc điểm
- Tính phân cực: Thái độ có thể là tích cực hay tiêu cực, đồng tình hay phản đối. Cá nhân có thể có thái độ chung đối với một đối tượng ở mức trung dung, nhưng trong đó vẫn bao gồm thái độ đối với những mặt cụ thể của đối tượng ở cực này hay cực kia (với mặt này thì đồng tình,mặt kia thì phản đối..)
- Mức độ ủng hộ: Thái độ luôn bao hàm sự ủng hộ hay phản đối với đối tượng ở các mức độ khác nhau: ủng hộ ít, ủng hộ nhiều hay phản đối.
- Tính ổn định: Thái độ của cá nhân về các đối tượng khá ổn định, các yếu tố cấu thành bao gồm nhận thức, xúc cảm liên hệ khá vững chắc. Thái độ đối với các đối tượng được hình thành trên nền tảng kinh nghiệm,kết hợp cả xúc cảm và nhân thức do vậy nó không dễ thay đổi. Muốn thay đổi thái độ của cá nhân cần có sự tác động kiên trì, hợp lý cả về nhận thức và xúc cảm.
- Cường độ: Thái độ có thể được bộc lộ với cường độ khác nhau. Cá nhân này bộc lộ thái độ một cách mạnh mẽ, cá nhân khác lại bộ lộ một cách yếu ớt. Cường độ bộc lộ của thái độ chịu sự chi phối của nhiều yếu tố, bao gồm các yếu tố bên trong như khí chất, khả năng tự chủ, các định hướng giá trị có liên quan của cá nhân, các yếu tố bên ngoài như tính chất của đối tượng, mối liên hệ, ý nghĩa của đối tượng với các nhu cầu của cá nhân, bối cảnh xã hội. Cá nhân có khả năng tự chủ sẽ biết cách bộc lộ thái độ một cách phù hợp.
- Tính nổi trội: khi có thái độ với một đối tượng nào đó ở cường độ cao, cá nhân sẵn sàng biểu thị thái độ đó ngay cả khi không được hỏi về nó.
* Chức năng của thái độ:
- Thích nghi xã hội: thái độ giúp ta hướng tới các đối tượng có thể mang lại những điều có ý nghĩa với bản thân.
- Chức năng biểu hiện: giúp con người thể hiện bản thân trước đối tượng khác,qua đó được người khác nhận biết để tạo ra các liên kết xã hội.
* Các thành tố của thái độ:
- Thái độ được coi là có cấu trúc gồm nhận thức của cá nhân về đối tượng và các xúc cảm có được từ các đối tượng đó.
- Nhận thức của cá nhân về đối tượng là yếu tố quan trọng để hình thành thái độ. Có thể nhận thức đúng hoặc sai, đầy đủ hay không đầy đủ. Trong đó cá nhân nhận thức chủ yếu về mối liên hệ hay ý nghĩa của đối tượng đối với bản thân. Do vậy, tính chủ quan thể hiện rất rõ. Cùng một đối tượng, nhưng sự nhận thức của các cá nhân có thể không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau.
- Rung cảm của cá nhân trước đối tượng xuất hiện trên cơ sở mối liên hệ của cá nhân với đối tượng (nhu cầu, động cơ…) hoặc các trải nghiệm đã có của cá nhân trước đối tượng. Những xúc cảm dương tính (vui vẻ, thoải mái, dễ chịu..) là cơ sở để hình thành và củng cố các thái độ tích cực đối với đối tượng. Ngược lại, các xúc cảm âm tính (khó chịu, căng thẳng…) làm xuất hiện các thái độ tiêu cực đối với đối tượng.
* Sự hình thành thái độ: Quá trình hình thành thái độ diễn ra rất phức tạp, chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau.
- Thái độ được hình thành trong quá trình thỏa mãn các nhu cầu của cá nhân: nhu cầu tồn tại tất nhiên trong mỗi cá nhân,chúng thúc đẩy cá nhân tiến hành các hoạt động để thỏa mãn. Trong đó, đối tượng giúp thỏa mãn nhu cầu của cá nhân hoặc ngược lại, không thỏa mãn các nhu cầu, đều có thể làm nảy sinh thái độ. Một đối tượng có thể làm nảy sinh các thái độ khác nhau ở một cá nhân trong cùng một thời điểm hoặc trong các thời điểm khác nhau. Ngược lại, nhiều đối tượng lại có thể làm nảy sinh cùng một thái độ.
- Trong trình tiếp thu xử lý các thông tin: thông tin về đối tượng giúp cá nhân nhận thức, suy luận, đánh giá từ đó hình thành thái độ về đối tượng. Các thông tin được cung cấp bởi người khác đã kèm theo việc bày tỏ thái độ cũng dễ ảnh hưởng đến thái độ của cá nhân tiếp nhận.
- Thông qua giao tiếp, tương tác với cá nhân khác. Trong quá trình tương tác, thái độ của các cá nhân về đối tượng có xu hướng xích lại gần nhau hơn hoặc ngày càng phân hóa hơn.
- Dựa trên nền tảng nhân cách. Thái độ của cá nhân hình thành trên cơ sở thống nhất các thành phần khác nhau của nhân cách và chịu sư chi phối của nhân cách toàn vẹn. Thái độ gắn liền với định hướng giá trị, năng lực, tính cách, động cơ… Không thể hiểu được thái độ của cá nhân nếu nhìn nhận nó tách rời nhân cách.
5. Giá trị
5.1. Khái niệm
- Giá trị là khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau và nội hàm của nó cũng được sử dụng không giống nhau. Trong lĩnh vực kinh tế học: giá trị là kết tinh của sức lao động, nguyên vật liệu tạo thành một sản phẩm. Mỗi một sản phẩm có giá trị sử dụng: sản phẩm được sử dụng để làm gì, mức độ đáp ứng nhu cầu của con người; Và có giá trị có thể đo bằng tiền thể hiện ở giá bán của sản phẩm. Như vậy, trong kinh tế học giá trị có thể lượng hóa tương đối dễ dàng. Trong khi đó, Triết học coi giá trị là những gì có ích, có ý nghĩa cho xã hội, cho con người, có khả năng phục vụ con người. Như vậy, giá trị không phải ở bản thân các thuộc tính của đối tượng mà ở ý nghĩa của đối tượng đó đối với đời sống của con người. Cách hiểu của Triết học rộng hơn nhưng cũng khó định lượng hơn.
- Tâm lý học có những điểm gần với triết học khi coi giá trị không phải là bản thân đặc điểm hay thuộc tính tự nhiên của đối tượng, mà là những thuộc tính được liên kết với với nhu cầu, cuộc sống của con người, tức là có ý nghĩa đối với con người. Tuy vậy, tâm lý học nhấn mạnh: Những đặc điểm, thuộc tính đó phải được phản ánh vào đầu óc của cá nhân, dưới dạng các hiện tượng tâm lý. Như vậy, giá trị là những cái có ý nghĩa ở đối tượng được con người phản ánh, thể hiện ở sự lựa chọn, đề cao, có vai trò dẫn dắt hoạt động của con người.
Theo cách hiểu này của Tâm lý học, không phải mọi giá trị là như nhau đối với mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân có sự phản ánh của riêng mình về các hệ giá trị tồn tại trong đời sống xã hội. Ngay cả một giá trị, được các cá nhân khác nhau tri giác, hiểu, vận dụng cũng rất khác nhau. Ở đây cần nhấn mạnh đến tính chủ thể trong việc nhận biết và chấp nhận các giá trị. Đây là điều hết sức cân lưu ý trong giáo dục giá trị cho học sinh.
- Trong xã hội tồn tại nhiều hệ giá trị. Cá nhân lựa chọn, lĩnh hội hệ giá trị này hay hệ giá trị khác. Xu hướng của cá nhân lựa chọn và phấn đấu và hành động vì giá trị nào đó gọi là định hướng giá trị. Nói cách khác, định hướng giá trị là sự lựa chọn những giá trị làm mục tiêu chỉ dẫn cho hành động của con người.
- Mỗi cá nhân (nhà giáo) định hướng giá trị cho học sinh hay cho tập thể học sinh là giáo dục giá trị.
5.2. Chiến lược hình thành thái độ và giá trị
- Hình thành giá trị ở học sinh là quá trình lâu dài, dần dần. Việc giáo dục giá trị sẽ có hiệu quả khi người giáo viên nắm được các chiến lược hình thành gái trị. Có nhiều chiến lược hình thành giá trị khác nhau. Theo lý thuyết của Lemin, Potts và Welsford (1994), việc hình thành giá trị cần phải qua 6 bước sau:
+ Xác định và làm rõ các giá trị: Học sinh được trao đổi với nhau về những điều họ cho là có giá trị, lựa chọn và giải thích lý do lựa chọn. Tự sắp xếp theo ưu tiên các giá trị mình lựa chọn.
+ So sánh và làm nổi bật sự khác biệt: So sánh quan điểm của học sinh khác nhau về giá trị. Giúp học sinh hiểu rằng quan niệm của mình về giá trị chỉ là một trong nhiều quan niệm khác nhau. Mỗi người có thể có quan niệm riêng của mình về giá trị. Từ đó hình thánh thái độ tôn trọng và thừa nhận người khác. Học sinh cũng có thể nhận thấy các bất đồng trong các quan niệm và trao đổi để giải quyết bất đồng
+ Khai thác và tìm hiểu cảm nhận của người khác: Trên cơ sở trao đổi quan điểm với người khác, học sinh được khuyến khích tìm hiểu cảm nhận của người khác. Việc hiểu được cảm nhận của người khác giúp học sinh có khả năng tìm kiếm sự thống nhất trong các giá trị.
+ Khai thác các giá trị khác biệt: Học sinh được khuyến khích khai thác các giá trị khác biệt với giá trị của mình, đặc biệt tìm hiểu ý nghĩa của các giá trị đó. Từ đó học sinh có khả năng củng cố giá trị mà bản thân đã lựa chọn
+ Xem xét các phương án và ý nghĩa của các phương án đó: Học sinh đề xuất các tiêu chí để đánh giá theo giá trị họ đã lựa chọn. Công việc này giúp cụ thể hóa các giá trị, từ đó có thể theo dõi việc thực hiện các giá trị đó trong cuộc sống.
+ Xây dựng kế hoạch hành động: Trên cơ sở các phương án và các tiêu chí đã đề ra, học sinh xây dựng kế hoạch hành động cho bản thân để đạt tới các giá trị đó. Kế hoạch hành động cần được xây dựng nhất quán với giá trị đã đề ra.
=> Căn cứ vào các bước này, có thể tổ chức giáo dục giá trị cho học sinh theo trình tự tương đương.
5.3. Một số giá trị cần hình thành cho học sinh
- Có nhiều cách phân loại hoặc nhóm các giá trị. Có thể phân loại thành:
+ Các giá trị chung của loài người: Tính người, tình người, Chân, Thiện, Mỹ.
Các giá trị chung này có thể coi là cuội nguồn của cội nguồn, được hình thành và phát triển trong suốt thời kỳ phát triển và tiến hóa của loài và xã hội. Ở cấp độ phát triển càng cao của loài và đặc biệt của xã hội thì tính người, tình người hay còn gọi là tính nhân bản càng phải phát triển cao hơn. Các giá trị chung này không phân biệt chủng tộc, giai cấp hay dân tộc. Nó là các giá trị đảm bảo cho sự phát triển của xã hội. Khi các giá trị này bị xâm phạm hoặc không được đề cao ắt sẽ dẫn tới sự suy thoái của loài người.
+ Các giá trị dân tộc: Tinh thần dân tộc, yêu nước, trách nhiệm cộng đồng.
Xã hội tồn tại được là bởi sự gắn kết của cộng đồng. Tinh thần trách nhiệm xã hội vừa là sản phẩm, vừa là tiền đề của sự phát triển xã hội. Trách nhiệm xã hội hay trách nhiệm cộng đồng là một trong những giá trị nổi bật của dân tộc ta.
+ Các giá trị gia đình: Hòa thuận, hiếu thảo, coi trọng giáo dục gia đình.
Gia đình vốn được coi là thành trì của đạo đức, ở đó nếu các giá trị bị phá hủy thì không thể chờ đợi được sự phát huy tác dụng của các gái trị xã hội. Gia đình được coi là cái nôi đặt nền móng nhân cách là giá trị cội nguồn của nhân cách.(PMH).
- UNESCO nhấn mạnh bốn nhóm giá trị:
+ Nhóm các giá trị cốt lõi: Hòa bình, tự do, việc làm, sức khỏe, an ninh, tự trọng, công lý, tình nghĩa, sống có mục đích, niềm tin, tự lập, nghề nghiệp, học vấn.
+ Nhóm các giá trị cơ bản: Sáng tạo, tình yêu, chân lý.
+ Nhóm các giá trị có ý nghĩa: Cuộc sống giàu sang, cái đẹp.
+ Nhóm giá trị không đặc trưng: Địa vị xã hội.
=> Việc giáo dục giá trị cho học sinh có thể được tiến hành trong các nội dung dạy học hoặc trong các hoạt động giáo dục.
Xem thêm:
Tóm tắt lý thuyết Tâm lý học giáo
Tóm tắt lý thuyết chương 1: Nhập môn Tâm lý học giáo dục
Tóm tắt lý thuyết chương 2: Sự phát triển tâm lí cá nhân
Tóm tắt lý thuyết chương 3: Cơ sở tâm lí học của hoạt động học
Tóm tắt lý thuyết chương 4: Cơ sở tâm lí học của hoạt động dạy học
Tóm tắt lý thuyết chương 5: Động cơ và hứng thú học tập
Tóm tắt lý thuyết chương 6: Cơ sở tâm lí học của quản lí lớp học
Tóm tắt lý thuyết chương 7: Cơ sở tâm lí học của giáo dục đạo đức, thái độ, giá trị và nhân cách
Tóm tắt lý thuyết chương 8: Hỗ trợ tâm lý trong trường học
Tóm tắt lý thuyết chương 9: Lao động sư phạm và nhân cách người thầy giáo
Việc làm dành cho sinh viên:
Việc làm thực tập sinh tâm lý
Việc làm gia sư các môn cập nhật theo ngày mới nhất
Việc làm thêm nhân viên phục vụ nhà hàng/ quán cafe dành cho sinh viên
Việc làm thực tập sinh quản lý đào tạo
Mức lương của thực tập sinh quản lý đào tạo là bao nhiêu?